Đặc điểm giải phẫu mạch vành

Phòng ngừa tim

Bệnh mạch vành là bệnh của các động mạch nuôi tim, còn được gọi là bệnh tim thiếu máu cục bộ, suy động mạch vành hay còn gọi là suy mạch vành. Đây là loại bệnh khá phổ biến mà nhiều người có nguy cơ mắc phải. Có 2 động mạch vành là động mạch vành trái và động mạch vành phải xuất phát ở gốc động mạch chủ. Để tìm hiểu cụ thể hơn về bệnh mạch vành và đặc điểm giải phẫu mạch vành mời bạn tìm hiểu bài viết dưới đây.

 

Đặc điểm giải phẫu mạch vành

Tim là khối rỗng, là cơ quan trung tâm đảm bảo chức năng bơm máu của hệ tuần hoàn, cơ tim được cấp máu, oxy và chất dinh dưỡng thông qua hệ thống động mạch vành. Có 2 động mạch vành là động mạch vành trái và động mạch vành phải xuất phát ở gốc động mạch chủ qua trung gian là những xoang Valsalva và chạy trên bề mặt của tim (giữa cơ tim và ngoại tâm mạc). Những xoang Valsalva có vai trò như một bình chứa để duy trì cung lượng vành khá ổn định.

Giải phẫu mạch vành trái

Động mạch vành trái sau khi chạy một đoạn ngắn (1-3cm) giữa động mạch phổi và nhĩ trái thì chia ra thành 2 nhánh là: Động mạch liên thất trước và động mạch mũ. Đoạn ngăn đó gọi là thân chung động mạch vành trái .

Trong 1/3 trường hợp, có sự chia 3 ( thay vì chia 2).Nhánh đó gọi là nhánh phân giác, tương đương với nhánh chéo đầu tiên của động mạch liên thất trước cung cấp máu cho thành trước bên.

Động mạch liên thất trước: Chạy dọc theo rảnh liên thất trước về phía mỏm tim, phân thành những nhánh vách và nhánh chéo. Những nhánh vách chạy xuyên vào liên thất, số lượng và kích thước rất thay đổi, nhưng đều có một nhánh lên đầu tiên tách ra thẳng góc và chia thành các nhánh nhỏ. Những nhánh chéo chạy ở thành trước bên, có từ 1-3 nhánh chéo. Trong 80% trường hợp, động mạch liên thất trước chạy vòng ra tới mỏm tim, còn 20% trường hợp có động mạch liên thất sau của động mạch vành phải phát triển hơn.

  • Xem thêm: Đau thắt ngưc bên trái | Đau tức ngực bên phải

Động mạch mũ: Chạy trong nhánh nhĩ thất, có vai trò rất thay đổi tùy theo sự ưu năng hay không của động mạch vành phải. Động mạch mũ cho 2-3 nhánh bờ cung cấp máu cho thành bên của thất trái. Trường hợp đặc biệt, động mạch liên thất trái và động mạch mũ có thể xuất hiện 2 thân riêng biệt ở động mạch chủ.

Giải phẫu mạch vành phải

Động mạch vành phải có nguyên ủy từ xoang Valsalva trước phải và phãi chạy trong rãnh nhĩ thất phải. ở đoạn gân cho nhánh vào nhĩ (động mạch nút xoang) và thất phải (động mạch phễu) rồi vòng ra bờ phải, tới chữ thập có tim chia thành nhánh động mạch liên thất sau và quặt người thất trái. Khi ưng năng trái, động mạch liên thất trái và nhánh quặt ngược thất trái. Khi ưu năng trái, động mạch liên thắt sau và nhánh quặt ngược thất trái đến từ động mạch mũ.

Về vai trò cấp máu: Động mạch vành phải cấp máu cho thất phải và 25-35% thất trái; động mạch liên thất trước cấp máu cho 45-55% thất trái, động mạch mũ cấp máu cho 15-25% thất trái. Về mặt đại thể, tuần hoàn vành không có vòng nối tuy nhiên luôn tồn tại vòng nối giữa các nhánh của một thân hoặc giữa hai thân động mạch vành. Các vòng nối được gọi là tuần hoàn bàng hệ của động mạch vành, khi tuần hoàn vành bình thường thì các vòng nối không mở, khi có hẹp hoặc tắc một nhánh hoặc một thân, hệ bàng hệ mở ra nhằm tưới máu cho vùng cơ tim bị thiếu máu tương tự.

Triệu chứng lâm sàng của bệnh mạch vành

Biểu hiện lâm sàng của bệnh mạch vành là cơn đau thắt ngực chiếm tỉ lệ 50%, tuy nhiên người bệnh đôi khi cũng không có biểu hiện lâm sàng nhất là khi mức độ bệnh còn nhẹ. Theo phân loại của Hội tim mạch Việt Nam, cơn đau ngực được chia thành:

  • Cơn đau thắt điển hình: Khi có cả 3 tiêu chuẩn: Đau, tức sau xương ức với tính chất cơn đau và thời gian điển hình; xảy ra khi gắng sức hay stress; giảm khi nghỉ ngơi hoặc sử dụng Nitroglycerine.
  • Đau ngực không điển hình: Có 2 trong 3 tiêu chuẩn trên.
  • Đau ngực không đặc hiệu: Có ≤ 1 trong 3 tiêu chuẩn trên.

Xét nghiệm cận lâm sàng

Điện tâm đồ (nghỉ tĩnh và gắng sức): Trên 50% bệnh nhân có cơn đau thắt ổn định có điện tâm đồ nghỉ tĩnh bình thường. Như vậy, điện tâm đồ nghỉ tĩnh bình thường cũng không loại trừ bệnh mạch vành. Điện tâm đồ gắng sức với xe đạp lực kế hoặc thảm lăn cho tỉ lệ âm tính giả thấp hơn, là một phương pháp chẩn đoán bệnh mạch vành thường được sử dụng trên lâm sàng với protocol gắng sức gần tối đa.

Siêu âm tinh (nghỉ tĩnh và gắng sức): Dấu hiệu rối loạn vận động vùng là biểu hiện của tình trạng thiếu máu cơ tim cục bộ bao gồm: Giảm động, vô động, loạn động, thành tim mỏng và không dày lên trong thì tâm thu.

Chụp cắt lớp vi tính đa dãy (MSCT): là một phương pháp ưu thế trong chẩn đoán bệnh mạch vành, tương đối phổ biến vì là phương pháp không xâm lấn, cho kết quả tốt với mức giá cả hợp lý.

Chụp cộng hưởng từ timco: Phương pháp này thuận lợi so với kỹ thuật khác như độ phân giải không gian cao, tương phản mô mềm cao, nhiều mặt cắt, không tia xạ, không xâm lấn

Chụp xạ hình tưới máu cơ tim (SPECT, PET): là phương pháp không xâm lấn tối ưu giúp đánh giá đầy đủ vị trí và mức độ tắc/ hẹp của các động mạch vành, tình trạng sống còn của vùng cơ tim bị nhồi máu từ đó giúp các bác sĩ đưa ra chỉ định điều trị đúng đắn (nội khoa, can thiệp hay phẫu thuật).

Chụp động mạch vành xâm lấn: Là tiêu chuẩn vàng trong chuẩn đoán bệnh mạch vành. Tuy nhiên đây là một phương pháp xâm lấn, có chi phí cao về tỷ lệ biến chứng khoảng 2% kỹ thuật này hiện nay không là phương tiện tầm soát trên diện rộng.

Bệnh mạch vành là một bệnh lý nguy hiểm, có thể để lại hậu quả trầm trọng về sức khỏe cũng như kinh tế nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. Bởi vậy, càng sàng lọc, phát hiện sớm để bệnh nhân được điều trị kịp thời, kiểm soát tích cực các yếu tố nguy cơ và ổn định mảng xơ vữa, giúp giảm tỷ lệ tử vong và cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh.